Vạn phu lực Ninh quốc lập quốc hàng trăm năm đến nay vẫn luôn tôn sùng Đạo giáo, quá nửa các đời chân nhân trên núi Long Hổ đều là quốc sư Ninh quốc. Đạo tông chú trọng nhân hòa khoan hậu, vậy nhưng mấy trăm năm nay các hoàng đế bệ hạ của Ninh quốc chưa từng có ai thật sự khoan nhân, ngay cả đương kim hoàng đế bệ hạ Lý Thừa Đường khi điều phái hai vạn quân tinh nhuệ xuống biên giới phía nam càn quét Lâm Việt quốc vào năm ngoái đã từng nói… Có biết tại sao Đại Ninh gọi là Đại Ninh không? Bởi vì có Đại Ninh ở đây, ai dám không an ninh? Nguyên nhân diệt Lâm Việt quốc chỉ là mấy con sơn dương của Lâm Việt quốc đã quá cảnh gặm ba cây cải thảo trong ruộng rau bên phía Đại Ninh. Hoang đường không? Hoang đường hay không hoang đường thì trong lòng bản thân hoàng đế Lâm Việt quốc biết rõ, nhưng trên đời duy nhất không có thuốc hối hận. Ba cây cải thảo, ba vạn quân tinh nhuệ, một quốc gia truyền thừa ba trăm năm đã bị tiêu diệt như thế. Nếu hoàng đế vong quốc Dương Ngọc của Lâm Việt quốc hiện giờ còn bị giam lỏng trong tiểu viện ở ngõ Bát Bộ kinh thành có thể sớm biết ngày hôm nay, y cũng sẽ hạ lệnh giết toàn bộ sơn dương, không, là toàn bộ dê, bò ở Lâm Việt quốc cũng không thể giữ lại. Đương kim bệ hạ đã phát huy vô cùng rõ rệt bá khí không nói đạo lý này của hoàng tộc Lý gia, nói như lời của thế hệ chân nhân này trên núi Long Hổ thì là… bàn long ẩn sâu, thi thoảng phải để lộ vuốt rồng, không thể để người ta lãng quên được. Điều rất kỳ quái là bắt đầu từ mấy năm trước, Thiền tông Tây Vực hưng thịnh ở Đại Ninh, hoàng hậu nương nương liền chí thành tín đồ, bà ta còn khuyên hoàng đế, nói Thiền tông chú trọng hành thiện, chú trọng nhân quả, sao bệ hạ không nghe thêm lời đại đức cao tăng? Lý Thừa Đường nói: “Trẫm biết đạo lý xa gần, Đạo tông là của chính Đại Ninh ta, trẫm không bảo vệ thì ai bảo vệ đây? Thứ ngoại lai… trẫm không thèm, nếu thật sự có nhân quả, nàng nên bị trời giáng thiên lôi.” Từ đó về sau hoàng hậu nương nương cũng không bao giờ vào chùa miếu nữa, chỉ thi thoảng cúng hương nến ở trong cung của mình. Mười hai năm trước, không biết tại sao, hoàng hậu nương nương lúc ấy vẫn chưa là hoàng hậu nương nương vào đạo quán lần cuối cùng, từ đó về sau thì bắt đầu đổi sang thờ Thiền tông. Khi đó Lý Thừa Đường vẫn là vương gia, người ngồi trên hoàng vị là ca ca Lý Thừa Viễn của ông ta. Trong một ngày hết sức bình thường của mười hai năm trước, hoàng đế Lý Thừa Viễn đột nhiên nôn ra máu, không bao lâu sau thì tắt thở, cả triều đình Đại Ninh quốc lập tức rối loạn, bởi vì hoàng đế bệ hạ không có con trai. Có đại học sĩ nói hoàng đế bệ hạ không có con trai, vậy thì chọn một người trong số các con trai của chư vị thân vương phủ kế thừa hoàng vị. Vậy nhưng lúc này đứa trẻ lớn nhất chưa quá bảy tám tuổi, đại học sĩ có tâm tư gì cũng đã rõ rành rành. Nhưng trong tay đại học sĩ có thực quyền, cả triều có một phần ba quan viên xuất thân là môn hạ của lão ta, ngay cả hoàng hậu cũng không dám nói thêm gì. Chẳng có ai ngờ được là vào ngày người ta vội vã đưa vị thế tử điện hạ được lựa chọn từ Giang Nam đến kinh thành, đại tướng quân trấn thủ biên giới phía đông Bùi Đình Sơn dẫn theo chín ngàn đao binh chắn ngang ở bên ngoài kinh thành. Vị đại tướng quân lãnh binh chinh chiến khắp nơi này dựng một cái chòi hóng mát ở cổng thành, ôm đao ngồi khoanh chân ở đó, chỉ nói một câu. Lưu Vương không đến, đao binh không tán. Lưu Vương, chính là đương kim bệ hạ Lý Thừa Đường. Tám vạn dũng sĩ trong kinh thành không dám động, thật sự là không dám động ư? Ai cũng biết, khi còn trẻ Lưu Vương đã có uy danh trong quân. Thế là vị thế tử điện hạ kia cong đuôi bỏ chạy, ngay cả cổng thành cũng không dám vào. Thế là vị đại học sĩ kia ngửa mặt lên trời thở dài, mắng một câu đới giáp mãng phu, làm việc thô lỗ như vậy, chẳng chú ý nho nhã một chút nào. Có vấn đề gì không? Chẳng có gì. Chính trong đêm Lý Thừa Đường sắp khởi hành về kinh thành vào mười hai năm trước, thê tử của ông ta đã vào đạo quán, gặp một đạo nhân, làm một việc mà sau này Lý Thừa Đường hết sức giận dữ. Nhà mẹ đẻ của hoàng hậu tương lai đó vốn là gia tộc vô hạn phong quang nhưng về sau bị dồn ép suốt mười hai năm, đến giờ ngay cả một chức quan trên tứ phẩm cũng không có, hết sức chật vật. Nhưng hoàng hậu cũng không hối hận. Cắn răng chống đỡ, báo ứng ác độc hơn nữa cũng không sợ. Ngày hôm đó, con trai độc nhất của bà ta vừa tròn một tuổi. Năm đó, đạo nhân trẻ tuổi trong đạo quán ấy đã thở dài một tiếng, mệnh của ta do trời quyết định, trong đêm tuyết lạnh ném món đồ hoàng hậu đưa cho gã rồi bỏ đạo quán về quê nhà, ngày ngày tự trách. Được trăm người kính sợ là hảo hán, được vạn người kính sợ là anh hùng, được thiên hạ kính sợ… tất nhiên là Đại Ninh, chỉ có thể là Đại Ninh. Cũng không biết bắt đầu từ lúc nào, các nước chung quanh Ninh quốc dần dà đều thịnh hành hoạt động cầu phúc, sớm nhất có lẽ là bắt đầu từ Chiêu Lý quốc ở sát bên cạnh Lâm Việt quốc. Mồng chín tháng chín hàng năm, vào ngày hoàng đế khai quốc Đại Ninh đăng cơ xưng đế, hoàng đế của Chiêu Lý quốc sẽ đích thân dẫn văn võ bách quan cầu phúc cho Đại Ninh, sau đó âm thầm chen thêm một câu… mong Đại Ninh bất động binh qua. Đơn giản mà nói chính là cầu nguyện mỗi năm, chớ có đến gần ta, chớ có đánh ta… Nói ra thì hơi buồn cười, sở dĩ Chiêu Lý quốc lại làm như vậy là vì chuyện của Lâm Việt quốc, mấy năm trước vì sơn dương vượt biên sang ăn mấy cây cải thảo của thôn dân mà hai mươi vạn tinh giáp Ninh quốc xuôi nam, xóa tên Lâm Việt quốc khỏi bản đồ. Thực lực của Lâm Việt quốc và Chiêu Lý quốc không chênh lệch bao nhiêu, hai nước đánh nhau hơn trăm năm mà không phân thắng bại, bây giờ hai mươi vạn tinh giáp đó còn trú đóng ở bên cạnh, sao Chiêu Lý quốc có thể không sợ được chứ? Đại Ninh có thể dùng mấy cây cải thảo làm cái cớ diệt Lâm Việt, nói không chừng sẽ vì cái cớ nhạt nhẽo tương tự mà diệt Chiêu Lý bọn họ. Hiện giờ vị hoàng đế vong quốc của Lâm Việt quốc đang bị giam lỏng ở ngõ Bát Bộ kinh thành Đại Ninh uống nhiều rượu rồi lại hối hận sao mình không giết hết sạch các loại dê cừu ở nước mình, hoàng đế Chiêu Lý quốc đã làm chuyện này rồi, diệt dê ở nước mình… Dê gánh tội. Đại Ninh mặt nào cũng mạnh, nhưng duy nhất có một điểm có vẻ hơi kém một chút, đó chính là thủy quân. Nói đến cường binh trên bộ, đứng đầu tất nhiên là dũng sĩ của tứ khố trên bốn khu vực biên cương Đại Ninh quốc, bắc cương Thiết Kỵ, tây cương Trọng Giáp, nam cương Lang Viên, đông cương Đao Binh, mà tứ khố lại là tứ cương binh nguyên, tứ khố võ phủ, có năm nào mà không phải là nhân tài đông đúc? Nhưng nếu không có quốc khố giàu có tích trữ suốt hàng trăm năm của Đại Ninh quốc, quân đội cường đại đến mấy cũng không gánh được bốn chữ “thiên hạ kính úy“. Đại Ninh có mười chín đạo, mỗi đạo có mười chín quận, nơi giàu có nhất là Giang Nam đạo, tiền lương thuế má tràn trề của quốc khố mỗi năm có một phần năm là đến từ Giang Nam đạo. Mà nơi giàu có nhất ở Giang Nam đạo lại là quận An Dương, nơi có phủ chức tạo Giang Nam Đại Ninh. Vải vóc lụa là của Đại Ninh đứng đầu thiên hạ, mức độ si mê gấm vóc Đại Ninh quốc của tóc đỏ phương bắc và mắt xanh Tây Vực khiến người ta khó mà tưởng tượng nổi. Nghe đồn quốc vương Xa Thác quốc Tây Vực khoe khoang trên người mình mặc mười bộ y phục cũng không nặng đến một cân, quốc vương nước láng giềng Thổ Phiên quốc lập tức không tiếc trọng kim để mua đồ tốt hơn, sau đó mở yến tiệc khoe khoang mình mặc mười lăm bộ, ừm, cũng chưa nặng đến một cân. Y phục là chính xác, còn cái cân có chính xác hay không thì không biết. Quận thành An Dương nằm sát bên sông Nam Bình, sông lớn vắt ngang, mỗi ngày đều có thương thuyền vận chuyển vải vóc gấm lụa nườm nượp không dứt, chính những bố thương này đang đóng góp đến sáu phần thuế thu của Giang Nam đạo. Trên thế giới này cũng không thiếu khuyết những kẻ bí quá hóa liều, thủy phỉ trên sông Nam Bình từ trước đến nay vẫn luôn là một đại họa. Ban đầu đã điều tập chiến binh Đại Ninh đến càn quét một lượt, khổ nỗi thuật dùng thuyền của thủy phỉ cao hơn những quân nhân vô địch trên bộ này rất nhiều, cho nên giết mãi không hết. Vì thế đương kim hoàng đế bệ hạ Lý Thừa Đường quyết định đường đường chính chính thành lập thủy sư của Đại Ninh tại Giang Nam đạo, danh nghĩa ban đầu là tuần giang thủy quân của phủ chức tạo Giang Nam. Ban đầu cũng có hiệu quả nhưng muốn diệt hết thủy phỉ cũng không phải chuyện ngày một ngày hai. Thiếu niên A Lãnh vừa mới chất hàng hóa xong đứng bên bờ sông nhìn chiến thuyền tuần giang đi ngang qua. Hắn là nghĩa tử của Mạnh lão bản, chủ một phường dệt vải ở trấn Ngư Lân, nói là nghĩa tử nhưng chẳng qua là người làm không công mà thôi. Hắn năm nay 12 tuổi, mơ ước lớn nhất chính là có vạn phu lực, giết hết thủy phỉ trong thiên hạ. Người thiếu niên có suy nghĩ hung ác tàn bạo như vậy chỉ bởi vì hắn nghĩ cha mẹ của mình nhất định là bị thủy phỉ giết, cho nên mới ném hắn, lúc đó còn bọc trong tã lót, vào bụi cây ven đường trong ngày đông giá lạnh ấy. Nếu không phải Mạnh lão bản đi ngang qua đã nhặt hắn về để chắn sát (1) cho nhi tử ruột của mình là Mạnh Trường An, có thể hắn đã rời khỏi cõi đời ở độ tuổi vừa mới mở mắt ra nhìn thế giới này rồi. Thẩm tiên sinh nói phải nhớ ơn nhiều, nhớ hận ít. A Lãnh ở nhà Mạnh lão bản chịu không ít khổ cực, 5-6 tuổi đã bắt đầu làm việc, hàng của nhà người khác đều là thuê xa phu đưa đến thuyền hàng bên sông, hàng nhà hắn, từ sau 10 tuổi đã là một mình A Lãnh vác đến. Tất cả mọi người đều nghĩ chắc hẳn A Lãnh không sống lâu, dù sao thì từ nhỏ như vậy đã bắt đầu làm việc, mỗi ngày Mạnh lão bản chỉ có hắn hai cái màn thầu nguội lạnh, có thể cầm cự được bao lâu chứ? A Lãnh giống như một cây cỏ dại trong tuyết không nên nhú lên nhưng lại cứ nhú lên, ngoan cường gạt hết tuyết đọng trên đất khô cằn, hướng về phía mặt trời mà sống… 12 tuổi, cao một mét bảy, tuy gầy gò nhưng cũng cường tráng. Từ chập tối đến đêm khuya, A Lãnh vẫn cứ ngồi bên bờ sông, hắn không thể đi, bởi vì Mạnh lão bản sai hắn ở đây chờ Mạnh Trường An, vị thiếu gia bằng tuổi mình nhưng số phận khác nhau đó. Sáu năm trước có một lão đạo nhân đi ngang qua đây, mắt sáng lên khi nhìn thấy Mạnh Trường An, nói Mạnh Trường An là thế hổ lang, sau này nhất định có công danh, cho nên đưa gã đến thư viện Nhạn Tháp ở thành Trường An đọc sách luyện võ. Hàng năm trước trung thu Mạnh Trường An đều sẽ từ kinh thành trở về, mỗi lần đều là A Lãnh kéo một cái xe lớn nặng nề đi đón gã về. Mạnh gia có ngựa kéo xe, nhưng Mạnh lão bản nói ngựa kéo xe quá xóc nảy, không vững vàng, thoải mái bằng người kéo xe. Tiểu bàn tử Trần Nhiễm từ chỗ xa chạy lại, đặt mông ngồi xuống bên cạnh A Lãnh, nhét cho hắn hai cái bánh màn thầu trắng nóng hổi: “A Lãnh, sao hôm nay vẫn chưa hết việc vậy? Ta thấy ngươi đã xếp hàng xong từ lúc chiều tối rồi mà.” “Chờ Mạnh Trường An.” Lãnh Nhi bật cười: “Ngươi đó, muộn như vậy rồi sao cũng không về đi?” “Chờ cha ta, cha ta nói lát nữa còn có một thuyền hàng phải xếp, đã nhận tiền của khách hàng rồi, về muộn hơn nữa cũng phải đợi.” Gã đưa cái bánh màn thầu lớn hơn một chút cho Lãnh Nhi, Lãnh Nhi chọn cái nhỏ, cắn một miếng hết hơn nửa cái bánh. Trần Nhiễm cũng cười, học theo Lãnh Nhi cắn một miếng, miệng ăn căng phồng mà vẫn còn nói: “Mạnh Trường An sắp về rồi à, cái tên đó, từ nhỏ đến lớn đều ăn hiếp ngươi… nhưng mà nói đi nói lại, hắn thật sự có thể trở thành đại tướng quân sao?” “Đại tướng quân?” Lãnh Nhi lắc lắc đầu, hắn không biết Mạnh Trường An có thể trở thành đại tướng quân hay không, nhưng nhớ hôm đó lúc lão đạo nhân đưa Mạnh Trường An đi, nhìn thấy hắn vác một cuộn vải trở về, lão đạo nhân lại giật mình đến nỗi run cả tay. Người đó lẩm bẩm nói mấy lời như cái gì mà khốn long tại uyên, Lãnh Nhi nghe không hiểu, còn nói gì mà Mạnh lão bản sẽ bị trời phạt, nói gì mà chỉ sợ trấn Ngư Lân sắp có nạn lớn. Mặc kệ lão ta chứ. Hắn không thích lão đạo nhân đó, nhìn có vẻ thần thần bí bí không vui vẻ, Lãnh Nhi thích Thẩm tiên sinh. Thẩm tiên sinh mỗi tháng đều đến Mạnh gia, nhìn có vẻ đúng là một người ấm áp, ông dường như đặc biệt tốt với Lãnh Nhi, mỗi lần Lãnh Nhi đến xếp hàng là ông đều sẽ cho Lãnh Nhi ba đồng tiền. Ba đồng tiền đương nhiên cũng chẳng tính là gì, cũng chỉ mua được hai cái màn thầu mà thôi, nhưng đó là quan tâm. Mỗi lần Thẩm tiên sinh đến cũng đều sẽ mang theo một ít quà nhỏ, không đáng tiền nhưng đều rất đặc biệt, lần này đã cho Lãnh Nhi một con dao săn nhỏ bằng thép tinh. Lãnh Nhi không hiểu Thẩm tiên sinh cho hắn cái này là ý gì, dù sao thì hắn rất thích là được rồi. Thẩm tiên sinh nghe nói chuyện của Lãnh Nhi mới đến nhà Mạnh lão bản nhập hàng. Mùa đông năm đó, Mạnh lão bản có được một đứa nhi tử, mời đạo nhân ở đạo quán gần đó xem tướng cho nhi tử. Đạo nhân nói Mạnh Trường An là người có phúc nhưng bạc mệnh, bảo Mạnh lão bản tìm một đứa trẻ mệnh khổ cùng tuổi với Mạnh Trường An làm nghĩa tử để chặn sát cho Mạnh Trường An. Điều trùng hợp là trên đường trở về nhà sau khi đưa đạo nhân về đạo quán, Mạnh lão bản đã nghe thấy tiếng trẻ con khóc trong bụi cỏ ven đường. Đứa trẻ mệnh khổ? Còn có gì khổ hơn là người bị vứt bỏ chứ? Mạnh lão bản nghĩ đây là ý trời, vô cùng vui mừng nhặt Lãnh Nhi về, đặt tên là Lãnh Nhi, tùy tiện đặt một cái tên như vậy, dù sao cũng không quan trọng. Y cũng không cho Lãnh Nhi mang họ Mạnh, đương nhiên có họ hay không cũng chẳng quan trọng. Lãnh Nhi nghĩ, nếu như có thể, mình sẽ lấy họ Thẩm, Thẩm của Thẩm tiên sinh… Thẩm Lãnh. Thẩm tiên sinh từng nói ơn nặng hơn hận, cũng không biết tại sao mỗi lần Thẩm tiên sinh tới đều nói câu này, trong ánh mắt nhìn Lãnh Nhi cũng có một ý tứ giống như là nghĩ đến sự tha thứ vậy. Lãnh Nhi không chắc chắn, hắn cũng không cho rằng sẽ có ý tứ như vậy, Thẩm tiên sinh cũng không có lỗi với mình. Nhưng Thẩm tiên sinh cũng nói, nam tử hán đại trượng phu, phải có chí khí yêu nước, ơn phải nhớ, thù cũng phải báo, bất luận là có thù hay có ơn, có thể mau chóng trả thì không thể chậm trễ. Thật ra Lãnh Nhi không hiểu Thẩm tiên sinh tặng hắn một con dao săn nhỏ là có ý gì, Thẩm tiên sinh muốn nói với hắn, đao không vỏ là bất tàng phong. Đang suy nghĩ lung tung, Lãnh Nhi bất chợt nghe thấy Trần Nhiễm vẫn đang nói gì đó bên cạnh mình, màn thầu thì đã ăn xong rồi. Lãnh Nhi chợt nhớ tới một chuyện: “Màn thầu này có phải là cơm tối của cha ngươi không? Ông ấy đưa màn thầu cho ta và ngươi rồi, lát nữa ông ấy phải chịu đói bụng xếp hàng thì sao có thể chịu được?” Lãnh Nhi lấy ba đồng tiền từ trong ngực ra: “Ở bờ sông bán màn thầu suốt ngày đêm, đi mua thêm hai cái cho cha ngươi đưa qua đó, làm nhi tử, phải nghĩ xem cha có mệt hay không nhiều một chút.” Trần Nhiễm cay mũi: “Ta biết rồi. Ta thà đói cũng không để cha ta đói.” Gã nắm ba đồng tiền chạy ra ngoài, giống như một con vịt béo ngốc nghếch. Lãnh Nhi bật người, Thẩm tiên sinh nói phải quan tâm nhiều đến người khác, phải thường xuyên hướng tới sự ấm áp… Thẩm tiên sinh thật là một người kỳ lạ, cái gì cũng biết, có nhiều lúc nói chuyện cũng có chút mâu thuẫn. Mấy năm nay Lãnh Nhi đều cất giữ tiền mà Thẩm tiên sinh cho hắn, cho dù mình lạnh đến đâu, đói đến đâu cũng không nỡ tiêu. Nghe nói đồ ăn trong Hạo Hải Lâu trấn Ngư Lân là ngon nhất nhưng đặc biệt đắt, mình phải tiết kiệm hơn nữa, sau đó mời Thẩm tiên sinh ăn cơm uống rượu ở Hạo Hải Lâu, phải gọi nhiều món ăn một chút mới được. Chờ đến nửa đêm, thuyền hàng nên đến vẫn chưa đến, các xa phu bốc vác đang chờ ở bờ sông bắt đầu mắng chửi, âm thanh không lớn nhưng có chút chói tai. Lãnh Nhi đứng lên giãn gân cốt một chút cho thoải mái, vết máu do bị dây thừng siết trên vai vẫn còn hơi đau. Đã vác hàng cả ngày, lại kéo một cỗ xe nặng nề như vậy đến, vai hắn sớm đã có chút thê thảm rồi. Đúng lúc này, hướng thượng du đột nhiên có từng luồng sáng đỏ thuận theo nước sông trôi xuống, có rất nhiều. Tất cả mọi người đều tụ tập ở trên cầu nhìn về bên đó, người tinh mắt đột nhiên hét lên một tiếng: “Thuyền bị đốt rồi.” Từng luồng, từng luồng sáng đỏ là từng chiếc thuyền hàng bị đốt cháy. Lãnh Nhi thầm giật mình… thủy phỉ! Thủy phỉ lại cướp thuyền trên sông rồi, Thẩm tiên sinh đã đi lúc chiều tối, tuyệt đối đừng xảy ra chuyện gì. Hắn đứng ở bờ sông kiễng chân lên nhìn, một chiếc thuyền hàng bị cháy đi qua trước mặt hắn, lửa cháy rất đượm. Lãnh Nhi nhìn thấy biểu tượng trên thuyền hàng nhờ ánh lửa… đó là thuyền của Thẩm tiên sinh. Lãnh Nhi thấy trời đất quay cuồng một trận, lần đầu tiên trong cuộc đời cảm thấy bị thương đến như vậy. Thân thế của hắn thê thảm đến mức nào thì hắn cũng không bi thương, nhưng Thẩm tiên sinh là người tốt như vậy, sao có thể chết chứ? Không chút do dự, Lãnh Nhi rút con dao săn nhỏ kia ra rồi ngậm trong miệng, cắn chặt răng, cúi đầu, giống như một con nghé không biết trên đời lòng người hiểm ác vậy, lao ra khỏi hàng rào, cắm đầu vào dòng nước sông lạnh buốt, bơi đến chỗ thuyền hàng đang cháy hừng hực kia. Nếu ta có vạn phu lực, nhất định sẽ giết hết thủy phỉ trong thiên hạ. (1) chắn sát: nếu có một vật không tốt hoặc vật đặt không đúng vị trí thích hợp sẽ gây ảnh hưởng không tốt đến người hoặc sự vật, sẽ có sát khí, mà chắn sát là dùng một vật hoặc chuyện khác để ngăn chặn hoặc loại trừ tình huống không tốt này.