Thác nước như một tấm màn nước, rủ xuống trước cửa động ngầm, che khuất lối ra, chỉ chừa lại một lối nhỏ bên trái, vừa đủ cho một người nghiêng mình đi qua. Ra khỏi đó, là một mỏm đá dựng đứng và hẹp, phải hết sức cẩn thận mới giữ được thăng bằng, không rơi xuống hồ bên dưới. Phía ngoài chính là một hồ nước sâu.

Trong hồ có mấy tảng đá nhô lên mặt nước, vừa khéo đủ để đặt chân đi men ra bờ. Vừa rồi, Đặng Trung và Hà Dung cũng vào hang bằng cách ấy.

Nơi này chật hẹp, trơn trượt, chỉ sơ sẩy một chút là có thể ngã xuống nước. Hạ Hầu Nghiên bị trẹo chân, không đủ sức tự mình men qua. Đặng Trung và Hà Dung dẫn đường, đã sang bờ trước. Hạ Hầu Nghiên nhìn Hà Dung theo sát sau lưng Đặng Trung, thản nhiên đặt chân lên từng phiến đá, chẳng chút do dự, bất giác lại nhớ hồi nhỏ từng doạ Hà Dung chạy khắp sân chỉ bằng một cây cung. Xem ra sức mạnh của tình yêu quả thực lớn lao — Dung Dung thật lòng để mắt đến vị Đặng công tử này rồi.

“A Nghiên, ta cõng muội qua.” Tư Mã Chiêu vừa nói vừa cúi xuống trước mặt nàng, phía sau, Trương Tuấn cùng đám thị vệ đều nín thở không dám ho he một tiếng. Họ từng thấy nhị công tử mặc giáp ra trận, thấy ngài mặc quan phục đứng giữa triều đường, thấy ngài phong thái ung dung giữa các thế gia vọng tộc, thấy ngài nhẫn nhịn kết giao hiền sĩ. Nhưng chưa từng thấy ngài khom mình cúi lưng, cam tâm làm kẻ gánh vác cho một người duy nhất thế này.

Những kinh ngạc ngấm ngầm ấy, Hạ Hầu Nghiên đương nhiên không hay biết, nàng chỉ biết mặt mình đã đỏ bừng, ngoan ngoãn trèo lên lưng Tư Mã Chiêu.

Lần đầu tiên được hắn cõng như vậy, bờ vai hắn vừa rộng vừa vững chãi, mang đến cảm giác an toàn vô cùng. Xuống thấp hơn là chiếc eo rắn chắc, gọn gàng đầy sức lực.

Lên bờ rồi, Tư Mã Chiêu nhẹ nhàng đặt nàng xuống, kiểm tra kỹ xem giày tất có bị ướt không, chắc chắn không sao rồi mới quay sang Đặng Trung và Hà Dung:“Việc gấp phải linh hoạt ứng biến, chuyện hôm nay xin nhờ hai vị giữ kín giùm, chớ để Hạ Hầu tiểu thư mang tiếng. Tử Thượng ở đây, xin đa tạ trước.”

Nói đoạn, Tư Mã Chiêu cúi người hành lễ với hai người. Đặng Trung lập tức vươn tay đỡ hắn dậy — phụ thân Tư Mã Chiêu là Tư Mã Ý, từng là cấp trên cũ của phụ thân Đặng Trung là Đặng Ngải, có ơn tri ngộ, sao hắn dám nhận lễ này. Riêng Hà Dung thì sảng khoái nói:“Công tử cứ yên tâm, ta và A Nghiên như tỷ muội, tất nhiên sẽ bảo vệ nàng mọi bề.”

Một luồng ấm áp dâng lên trong lòng Hạ Hầu Nghiên. Tử Thượng huynh vẫn luôn dịu dàng, chu đáo với nàng, đến chuyện nhỏ cũng lo lắng thay, không tiếc khom mình cầu xin vì nàng. Hà Dung cũng hết lòng bênh vực, khiến nàng cảm động vô hạn.

Nàng khẽ quay đầu sang bên khác, định giơ tay lên vờ như vô tình lau đi giọt lệ vừa lăn khỏi khoé mắt — nhưng vừa ngẩng lên đã “á” một tiếng thảng thốt.

Chỉ thấy cách màn nước của thác khoảng ba, bốn trượng bên trái, có một người đàn bà **** ****** ngồi co mình trong nước. Mái tóc đen xoã xuống, che ngang bờ ngực đầy đặn trắng trẻo, vừa khéo phủ lên đường cong căng tròn. Hai tay người đàn bà vươn ra hai bên như đang nâng đỡ, giữa lòng bàn tay mỗi bên lại mọc ra một đóa hoa nở rực rỡ.

“Hạ Hầu tiểu thư đừng sợ, đó là tượng đá, không phải người thật. Chính là cảnh kỳ lạ ta vừa nói với Tử Thượng huynh.”

Hóa ra họ ở trong hang khá lâu, đến khi ra thì trời đã chạng vạng tối, ánh sáng xung quanh u ám, mà bức tượng lại tinh xảo khác thường, sống động y như thật, không trách nàng vừa nhìn đã tưởng người sống.

Biết chỉ là tượng đá, tim treo ngược của Hạ Hầu Nghiên mới chịu thả lỏng, nhưng ánh mắt nàng vẫn bị cảnh ấy níu chặt — cảm thấy nơi này quả thực quái lạ khó tả.

“Tiểu thư, tiểu thư!”

Một giọng nữ sốt ruột vang lên, kéo Hạ Hầu Nghiên trở về thực tại — là Tích Duyệt. Nàng ta cùng Cao Nghênh Đễ đi chung xe với đám thị vệ Tư Mã Chiêu đưa tới, vừa xuống xe đã chạy ngay tới bên Hạ Hầu Nghiên, vội vàng cúi người kiểm tra khắp lượt, thấy tiểu thư không thương tích gì, chỉ có chân phải sưng vù, mang tạm khăn lụa quấn lại, thì lập tức quỳ xuống đất, thay giày tất cho nàng.

“Tiểu thư, chân người sưng to thế này, có đau lắm không? Tích Duyệt dìu người lên xe nhé, chúng ta mau chóng hồi phủ thôi.”

“Không sao đâu, chưa chạm xương mà, chưa cần gấp về. Vẫn còn chuyện chưa xử lý xong.”

“Tiểu thư nói sao thì nô tỳ nghe vậy, chỉ xin người lần sau đừng bỏ Tích Duyệt ở lại nữa, xin người hãy để Tích Duyệt luôn hầu bên cạnh.”

Nói rồi, mắt Tích Duyệt đã rưng rưng lệ.

“Được rồi, Tích Duyệt, ta biết ngươi thương ta, mau lau nước mắt đi, nhìn xem ai đang ở đây này.” Hạ Hầu Nghiên nắm tay Tích Duyệt đỡ mình đứng dậy, rồi chỉ tay về phía Hà Dung bên cạnh.

“Thì ra tiểu thư Hà gia cũng ở đây, trách nào công tử Tư Mã dặn ta mang theo hai chiếc áo choàng…” Tích Duyệt vừa nói vừa sai Cao Nghênh Đễ đem áo choàng khoác cho Hà Dung.

“Ngươi này, mắt chỉ có tiểu thư nhà mình, ta đứng bên cạnh mà ngươi cũng chẳng buồn nhìn…” Hà Dung cười đùa trêu Tích Duyệt, nhưng khi ánh mắt lướt qua Cao Nghênh Đễ đang cúi người khoác áo cho mình, nàng bỗng khựng lại.

Đúng lúc ấy, Đặng Trung — đang đứng bên bờ suối trò chuyện với Tư Mã Chiêu — cũng bỗng khựng người, rồi sải bước nhanh đến đứng trước mặt Cao Nghênh Đễ.

“Nghênh Đễ, muội… sao muội lại ở đây?!”

“Văn Độ ca ca, ta… ta… không ngờ huynh lại đích thân đến tìm ta…” Cao Nghênh Đễ lắp bắp, đôi mắt tròn xoe vì kinh ngạc mà mở lớn, gương mặt vốn gầy gò lại càng hiện rõ nét thanh mảnh.

“Bọn họ quen nhau à?” Hạ Hầu Nghiên ghé tai hỏi Hà Dung.

“Phải rồi. Ba năm trước, người ta từng thấy muội ấy ngồi chung ngựa với Đặng công tử mà.”“Vậy sao muội ấy lại làm tỳ nữ của muội?”“Còn tỷ sao lại đi cùng Đặng công tử tìm cô ấy?”

Hai câu hỏi gần như bật ra cùng lúc. Sau một hồi trò chuyện, chân tướng mới dần sáng tỏ: thì ra cha của Đặng Trung là Đặng Ngải, thuở nhỏ gia cảnh nghèo khó, từng đi chăn bò thuê ngoài ruộng để nuôi mẹ già, khi ấy nhà họ Đặng và nhà cha mẹ Cao Nghênh Đễ là hàng xóm, thường cưu mang lẫn nhau. Khi còn nhỏ, Đặng Trung cũng hay chơi đùa cùng Cao Nghênh Đễ, xem như thanh mai trúc mã.

Về sau, Đặng Ngải nhập quan, lập nhiều chiến công, chức tước thăng tiến không ngừng, nhưng ông chưa bao giờ quên gốc gác nông dân, thường dạy các con rằng nông canh là gốc rễ quốc gia, cũng hay tìm cách thăm hỏi xóm giềng cũ. Sau này bận việc triều chính, ông bèn bảo trưởng tử Đặng Trung thay mình đi thăm nom, chăm sóc.

“Nói ra thật hổ thẹn, bận rộn công vụ, chẳng bứt ra được, nên ta đã ba năm không ghé thăm nhà họ Cao. Nếu ta đến sớm hơn vài ngày, Nghênh Đễ đã chẳng phải chịu khổ thế này.” Biết rõ cảnh ngộ bị bán đi của Cao Nghênh Đễ, gương mặt nghiêm nghị của Đặng Trung thoáng nét đau xót.

“Văn Độ ca ca đừng nói vậy… Nhà muội nhờ huynh và bá phụ giúp đỡ mới có thể dời từ đất cằn đến gần kinh thành thế này…”

Đặng Trung và Cao Nghênh Đễ hàn huyên, Hạ Hầu Nghiên thì không khỏi để ý nhìn nét mặt Hà Dung, thấy nàng không hề tỏ vẻ khó chịu.

“Dung Dung, tỷ năm xưa khổ công ép cân, chẳng lẽ vì Cao Nghênh Đễ?”Hà Dung đỏ bừng mặt: “Taa nào có biết đâu! Nhưng giờ ta đã hiểu rồi — nếu Đặng công tử thực lòng thích muội ấy, thì sao ba năm không ghé thăm, chẳng đoái hoài? Xem ra họ chỉ có chút tình nghĩa thuở nhỏ thôi, chứ không hơn.”

Hai người vừa nói, bỗng nghe tiếng bước chân lộn xộn và tiếng xì xào. Chỉ thấy một đoàn hơn mười dân làng từ lối mòn ngoài ruộng đi tới, ai nấy đều cầm ba bông thủy tiên trên tay.

Họ đi thẳng đến bên thác nước, tụ tập quanh bức tượng đá người nữ, rồi thảy những bông thủy tiên xuống nước, chắp tay nhắm mắt, miệng lẩm bẩm niệm gì đó.

Hạ Hầu Nghiên thấy vậy thì vô cùng lạ lẫm. Nàng biết cuối đời Tiền Triều, Phật giáo từ ngoại bang đã bắt đầu truyền vào dân gian, cũng từng nghe nói ở đất Thục có giáo phái Ngũ Đấu Mễ, nhưng chưa từng nghe về một tôn giáo nào lấy hình tượng nữ nhân và hoa thủy tiên làm biểu tượng.

“Tử Thượng huynh, huynh có thấy chuyện này quá quái lạ không?” Đặng Trung hạ giọng: “Gần đây ta đi các thôn xóm, nghe loáng thoáng tên ‘Thủy Tiên giáo’. Nghe nói rất nhiều dân làng sùng bái Thủy Tiên Thần Nữ, tin rằng thần nữ sẽ ban tiền của, trừ bệnh tật. Những người này chắc là tín đồ Thủy Tiên giáo.”

“Không ngờ ngay dưới chân thành Lạc Dương mà lại có thứ tà giáo quái dị thế này, ta thì hoàn toàn không hay biết — quả là ta còn kém hiểu sự đời.” Tư Mã Chiêu khẽ thở dài.

“Huynh chớ tự trách. Ta từ Nhữ Nam đi đường tới đây, cũng chưa từng nghe đến giáo này, chỉ khi quanh quẩn gần Lạc Dương mới nghe đồn mà thôi.”

“Theo lời huynh, giáo phái này khởi nguồn ở vùng này?” Ánh mắt Tư Mã Chiêu loé lên tia nghiêm lạnh. Đặng Trung cúi đầu: “E là vậy.”

Người dân đến dâng hoa ngày càng đông, chẳng mấy chốc đã tụ thành hơn trăm người. Kỳ lạ là, dâng hoa xong bọn họ không tản đi mà vẫn đứng tụ quanh bờ hồ, đi đi lại lại, lác đác vài kẻ thì thầm với nhau, nhưng phần lớn thì lẩm nhẩm đọc thứ gì nghe như kinh kệ.

“Xem chừng bọn họ sắp làm nghi thức gì đó, chúng ta nhìn qua đã biết là người ngoài, e sẽ gây nghi ngờ, chi bằng ẩn mình quan sát.”

Tư Mã Chiêu vừa đề xuất, ai nấy đều gật đầu tán thành — quả nhiên đã có vài dân làng bắt đầu chỉ trỏ về phía họ. May mà gần thác không xa có một gốc cổ thụ hai người ôm mới xuể, Tư Mã Chiêu và Đặng Trung leo lên ẩn mình trên đó, Hạ Hầu Nghiên và Hà Dung nấp phía sau thân cây, Tích Duyệt và Cao Nghênh Đễ trốn sau một tảng đá ven hồ, Trương Tuấn dẫn đám thị vệ tản ra ẩn nấp bốn phía.

Bóng đêm càng lúc càng buông dày, bầu trời như bị ai hắt mực lên. Lúc này, từ trong đám đông bước ra bốn người đàn ông mặc trường bào trắng, đầu đội mũ chóp nhọn. Họ đi vòng quanh phân phát nến cho dân làng, chẳng mấy chốc, ánh nến lấm tấm phủ khắp nơi.

Ánh nến leo lét chiếu lên những gương mặt chập chờn, cùng tiếng thác nước ào ạt và pho tượng đá nữ nhân kia, giữa đêm xuân se lạnh, tất cả hòa vào nhau tạo thành một khung cảnh vừa quỷ dị vừa rợn người. Nhất là bốn kẻ áo dài trắng quét đất, chập chờn qua lại trong đám người hệt như những hồn ma.

Chỉ thấy kẻ dẫn đầu bốn người ấy, râu tóc đã hoa râm xõa dài tới ngực, đi tới đứng bên thác, rồi xoay người lại, đối diện với đám dân làng đông nghịt. Hắn giơ tay ra hiệu mọi người giữ yên lặng — lập tức, tiếng lẩm bẩm niệm chú im bặt, trăm ánh mắt đồng loạt hướng về hắn, ánh lên niềm khát khao mãnh liệt.

“Các huynh đệ tỷ muội, đêm nay chính là đêm Thủy Tiên. Những nữ thị được chọn hầu hạ Thần Nữ đã định xong, họ sẽ rời khỏi trần thế khổ đau, bước vào cảnh cực lạc. Họ sẽ dâng hiến thân xác và tinh thần cho Thủy Tiên Thần Nữ, Thần Nữ sẽ phù hộ cho họ thanh xuân bất lão, vô bệnh vô ưu. Còn các người — những kẻ đã dâng nữ thị — các huynh đệ tỷ muội của ta, từ nay cũng sẽ được Thủy Tiên Thần Nữ che chở.”

Không rõ từ đâu vang lên một khúc kèn sứa não nề, tiếng kèn réo rắt mà sắc lạnh khiến người ta bất giác nổi da gà. Hạ Hầu Nghiên cảm thấy lưng mình lạnh buốt, từng sợi tóc dựng đứng, vô thức siết chặt áo choàng trên người, mắt vẫn nhìn chằm chằm cảnh tượng trước mặt.

Chỉ thấy sáu thiếu nữ dáng người uyển chuyển, chia làm hai hàng, khiêng một tòa bảo tọa kết toàn bằng hoa thủy tiên đi tới. Trên bảo tọa, một nữ nhân ngồi uy nghi, mắt khép hờ, đôi tay đặt hai bên theo thế nâng đỡ, giữa lòng bàn tay mỗi bên đều đặt một đóa thủy tiên nở rộ — y hệt pho tượng nữ nhân đá ngồi giữa hồ.

Khi đoàn người đi đến gần, Hạ Hầu Nghiên dụi mắt nhìn kỹ, mới phát hiện ra trên bảo tọa kia ngồi không phải người sống, mà chỉ là một hình nhân giấy được tỉa gọt tinh xảo, dung mạo giống hệt bức tượng đá, mà gương mặt kia, chẳng hiểu sao lại gợi cho nàng một cảm giác quen thuộc mơ hồ.

Nghĩ đến đây, nàng ngờ rằng pho tượng đá cùng hình nhân giấy kia, chính là Thần Nữ mà Thủy Tiên giáo thờ phụng.

Sáu thiếu nữ khiêng hình nhân, chầm chậm rảo ba vòng quanh bờ hồ. Phía sau là đoàn dân làng tay cầm nến, chậm rãi bước theo, miệng không ngừng tụng niệm:“Thủy Tiên Thần Nữ, pháp lực vô biên, cứu ta thoát khổ, diệt trừ bệnh tật.”

Hạ Hầu Nghiên bỗng cảm thấy tay mình đau nhói — thì ra Hà Dung đã siết chặt tay nàng tự lúc nào. Hà Dung khẽ thì thầm, giọng run run: “Nghiên nhi, cảnh tượng này rốt cuộc là gì vậy? Ta cứ thấy rờn rợn làm sao.”

“Dung Dung đừng sợ, chỉ cần chúng ta không bị phát hiện, cũng không quấy nhiễu bọn họ, hẳn sẽ không có việc gì.”

Sau khi đi quanh ba vòng, đoàn thiếu nữ khiêng hình nhân dần khuất vào bóng đêm tịch mịch. Tiếng kèn sứa lại vang lên lần nữa, như báo hiệu một nghi lễ khác bắt đầu.

Chỉ thấy từ trong đám người lục tục bước ra hơn chục phụ nhân, mỗi người đều bế một đứa trẻ — nhỏ thì còn đỏ hỏn bọc tã, lớn thì chừng năm sáu tuổi. Kỳ lạ là những đứa trẻ kia đều mềm oặt trong lòng mẹ, tựa như đang mê man ngủ say.

Những phụ nhân ấy chậm rãi tiến đến bên thác nước, lại có người khiêng ra vài chiếc bè tre. Họ đặt con trẻ lên bè, rồi đẩy bè ra hồ. Những kẻ khác thì lũ lượt tiến lên, tung hết hoa thủy tiên đang cầm xuống nước. Bên trái thác là một vũng nước sâu, tượng đá Thần Nữ ngồi ngay đó; còn bên phải thông ra một con sông nhỏ, nước chảy quanh co uốn lượn, cuốn theo bè tre cùng những đứa trẻ xuôi về hạ lưu.

Hạ Hầu Nghiên vội đưa tay bịt miệng mũi, sợ bản thân lỡ kêu lên. Hà Dung thì cắn chặt khăn tay, đầu ngón tay bấu sâu vào lòng bàn tay đến phát trắng.

Những phụ nhân kia vẫn đứng tụ bên bờ hồ, vẻ mặt nghiêm trang, không một tia đau đớn, miệng đồng thanh niệm:“Ngươi hãy lên cõi cực lạc,Ta mai sau sẽ theo ngươi.”“Về chốn trường lạc,Hưởng phúc vô biên.”

Râu tóc bạc phơ, kẻ dẫn đầu mặc bạch bào lại bước ra, cất giọng vang vọng:“Huynh đệ tỷ muội, con các ngươi đã thoát khỏi bệnh tật khổ đau, lên cõi cực lạc, Thủy Tiên Thần Nữ sẽ phù hộ chúng hưởng phúc muôn đời. Chúng là người có phúc, các ngươi càng phải thành tâm tu hành, mới mong sớm được sum họp trên mây.”

Lão lại nói tiếp: “Về đi thôi, về đi, huynh đệ tỷ muội, lòng thành của các ngươi sẽ được báo đáp. Ngày mai, Thủy Tiên Thần Nữ sẽ ban cho mỗi nhà một đấu gạo.”

Chẳng bao lâu, đám người dần tản ra. Tư Mã Chiêu cùng Đặng Trung cũng từ trên cây nhảy xuống, tụ lại với Hạ Hầu Nghiên và Hà Dung.

Hạ Hầu Nghiên lập tức nắm chặt tay áo Tư Mã Chiêu: “Tử Thượng ca ca, những đứa trẻ bị thả trôi kia thì sao? Có cứu được không? Chúng có chết đuối mất không?”

“Đừng sợ, A Nghiên, ta đã sai Trương Tuấn dẫn người mai phục sẵn dọc bờ sông, nếu còn sống, nhất định cứu được.”

“Ta từng nghe, giáo phái Thủy Tiên rao giảng ‘có bệnh không trị’, chỉ cần tụng giáo lý. Bệnh khỏi là do trời định, bệnh chết cũng là theo Thần Nữ lên cực lạc. Vậy nên bọn trẻ kia tám chín phần đều đã tắt thở, còn các bà mẹ khi đặt con lên bè cũng không chút bi ai.” Đặng Trung chậm rãi nói.

Nghe vậy, Tư Mã Chiêu trầm giọng: “Ta với A Nghiên bị rơi xuống địa đạo, chính là chỗ ẩn giấu phụ nữ bị bán, Văn Độ và Hà tiểu thư cũng theo dấu kẻ buôn người mà mò được. Đến đây thì còn là tội buôn bán dân đen, nhưng nghi lễ đêm nay khiến ta nhớ lời A Nghiên từng nói: Cao Nghênh Đễ bị chủ quán trọ mua về làm nữ thị hầu Thần Nữ, thực chất lại bị đem dâng cho kẻ quyền quý trong kinh thành. Xem ra chuyện buôn phụ nữ này và Thủy Tiên giáo có quan hệ mờ ám.”

“Phải… ta nghe bọn họ nói, làm nữ thị chỉ là cái cớ, thật ra là để đưa vào kinh, hầu hạ một vị đại nhân…” Cao Nghênh Đễ khẽ lên tiếng, sắc mặt tái nhợt, vai run lên nhè nhẹ. Hạ Hầu Nghiên tưởng nàng sợ hãi nhớ lại cảnh bị đánh, liền nắm chặt tay an ủi: “Đừng sợ, có Tử Thượng ca ca ở đây, còn có Đặng công tử và mọi người, sẽ không ai dám bắt ngươi đi nữa.”

Nào ngờ Cao Nghênh Đễ lại lắc đầu, giọng run run: “Tiểu thư, không phải muội sợ… chỉ là… có một chuyện, muội không biết có nên nói không, vì… muội cũng không dám chắc…”

“Chuyện gì?”Người mở miệng hỏi là Tư Mã Chiêu. Chỉ vỏn vẹn hai chữ ngắn gọn, nhưng ánh mắt sắc lạnh quét tới khiến Cao Nghênh Đễ lập tức run lên, không tự chủ mà đáp:“Là lão áo bào trắng! Dù trời tối, ta không nhìn rõ lắm, ông ta còn để râu dài và dùng vành mũ che nửa mặt… nhưng giọng nói thì không thể sai. Ta nghe ra ngay, đó chính là… chính là lão Quách, Quách chưởng quỹ của quán trọ Lược Mã…”

Nói ra được điều này dường như đã rút cạn sức lực của nàng, sắc mặt càng trắng bệch. Hạ Hầu Nghiên vội ra hiệu cho Tích Duyệt đỡ lấy nàng.

“Nghênh Đễ, lời ngươi nói… thật sự đúng chứ?”Đặng Trung nghiêm giọng nhìn nàng chăm chú.

“Muôn phần thật, Văn Độ ca ca! Muội ở nhà lão ấy hơn một tháng, suốt ngày nghe lão quát nạt sai bảo đám tiểu nhị, giọng nói quá quen thuộc. Trên đời làm gì có hai người giọng giống nhau như đúc chứ…”

Hà Dung nghe vậy liền chau mày: “Lạ thật. Quách chưởng quỹ tự dâng con gái mình làm nữ thị, lại lén lút mua một cô gái khác có diện mạo tương tự thay thế, tốn công bày trò như vậy, rốt cuộc là mưu tính điều gì?”

Nghe Hà Dung hỏi, ánh mắt Hạ Hầu Nghiên bỗng sáng bừng: “Có lẽ là thế này… Quách chưởng quỹ vốn là kẻ cầm đầu tổ chức Thủy Tiên giáo, muốn khích lệ đám tín đồ tự nguyện dâng con gái mình. Hắn bèn bày trò ‘cúng’ con gái ra trước, chẳng khác nào bày hàng xong lại cho người nhà mình ra tranh mua trước, để **** ***** kẻ khác lao vào làm theo…”

“À… Thì ra là vậy!” Hà Dung vỗ tay nhẹ, “Nghiên nhi nói thế thì ta đã rõ. Nhưng mà, sao muội lại biết mấy chuyện buôn bán thế này?”

Hạ Hầu Nghiên đỏ mặt, nói nhỏ: “Ta cũng không rành gì đâu, chỉ đọc trong sách thấy có chuyện gần giống như vậy…”

Tư Mã Chiêu khẽ gật đầu, ánh mắt nhìn nàng chan chứa yêu thương mà cũng đầy tán thưởng: “A Nghiên nói chí phải, đúng như ý ta nghĩ.”

Đặng Trung lại chắp tay trầm giọng: “Tử Thượng huynh, Văn Độ còn có một điều chưa rõ: Thủy Tiên giáo xúi giục dân đem xác trẻ con thả sông, rốt cuộc chỉ là nghi lễ, hay còn ý đồ khác? Bao nhiêu xác trôi về hạ lưu, ắt sẽ gây chấn động, quan phủ không thể không tra hỏi.”

Tư Mã Chiêu gật đầu: “Điểm này, phải đợi Trương Tuấn hồi báo mới kết luận được. Văn Độ, lần này ngươi từ Nhữ Nam lên đây, có mang theo hộ vệ bên mình không?”

“Ta chỉ định ghé thăm cố hữu, nên giả làm thường dân, chỉ dắt theo hai người thân tín.”

“Vậy thì tốt. Ta sẽ phái thêm một đội nhân mã cho ngươi, toàn quyền nghe lệnh ngươi, chuyên tra việc buôn bán phụ nữ. Ta và Trương Tuấn sẽ tiếp tục điều tra đường dây trẻ con và Thủy Tiên giáo. Ý các vị thế nào?”

“Khéo léo thỏa đáng! Văn Độ xin lĩnh mệnh, trước cảm tạ Tử Thượng huynh.” Đặng Trung nói rồi khom mình thi lễ.

Hạ Hầu Nghiên thì khỏi phải nói, trong lòng nàng từ lâu đã khắc ghi: những điều Tử Thượng ca ca an bài, lúc nào cũng chu toàn hơn nàng nghĩ trước một bước. Còn Hà Dung, nhìn thấy Tư Mã Chiêu và Đặng Trung đối đãi thân tình như vậy, mối ác cảm ngày trước với Tư Mã gia cũng tiêu tán quá nửa.

Trời đã gần sang giờ Hợi, bốn người bàn bạc xong thì chia tay. Đặng Trung đang tạm trú tại một khách **** trong thành Doãn Xuyên, trước khi quay về sẽ đưa Hà Dung tới biệt viện ôn tuyền của Hà phủ. Biệt viện đó vốn do Tào Sảng tặng, thực ra những kẻ thân thiết với họ Tào ở kinh thành, phần lớn đều được ban biệt viện ôn tuyền trong thành, để giữ chân và lôi kéo lòng người. Nhà Hạ Hầu cũng có, nhưng từ khi Tư Mã gia xích mích với Tào Sảng, Hạ Hầu Nghiên chẳng buồn đặt chân tới, coi như không có.

Tư Mã Chiêu đích thân đưa Hạ Hầu Nghiên về Lư phủ nơi cô mẫu nàng đang ở, rồi mới quay lại chỗ Đàm huyện lệnh. Trên xe ngựa, đêm tối thăm thẳm, hai người cùng ngồi bên nhau, bánh xe lộc cộc dằn xóc trên con đường quê vắng lặng. Bỗng Hạ Hầu Nghiên khẽ “a” một tiếng, đôi mắt mở to.

Nàng chợt nhớ ra rồi.

Bức tượng đá dưới thác nước, hình nhân giấy được thiếu nữ khiêng đi… rốt cuộc giống ai — cuối cùng nàng cũng nghĩ ra.Đôi mày thanh tú, dáng vẻ kiều mỵ ấy… chẳng phải chính là Hứa Ngọc Phủ sao?